CÔNG NGHỆ THÔNG TIN – ĐỘNG LỰC CỦA SỰ PHÁT TRIỂN

Thảo luận trong 'Tin tức CNTT' bắt đầu bởi levanthangedu, 26/6/18.

  1. levanthangedu
    Tham gia ngày:
    20/6/18
    Bài viết:
    4
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    1
    Giới tính:
    Nam
    CÔNG NGHỆ THÔNG TIN – ĐỘNG LỰC CỦA SỰ PHÁT TRIỂN.

    I. Đặt vấn đề

    Phát triển nền kinh tế tri thức đang là một yêu cầu lớn được đặt ra trong toàn bộ sự phát triển kinh tế. Cùng với CNH, HĐH, kinh tế tri thức chính là một trong 2 trục của sự phát triển này. Một câu hỏi đặt ra là với sự cần thiết như vậy của nền kinh tế tri thức, chúng ta cần phải xác định được đâu là động lực chính, đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức? Việc xác định này nếu đúng đắn sẽ giúp chúng ta có những định hướng phát triển đúng, tránh nguy cơ chệch hướng trong phát triển. Chúng ta có thể kể tới 4 động lực chính của nền kinh tế tri thức đó là: Thể chế, chính sách kinh tế; Nguồn nhân lực chất lượng cao, có năng lực và khả năng sáng tạo; Nâng cao năng lực khoa học công nghệ quốc gia và xây dựng được hệ thống đổi mới quốc gia; Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển mạnh mẽ công nghệ thông tin và truyền thông. Trong các động lực trên, chúng ta xác định việc đẩy mạnh phát triển hơn nữa công nghệ thông tin là động lực to lớn nhất thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế tri thức.

    II. Giải quyết vấn đề

    1. Vài nét về công nghệ thông tin (CNTT)

    a. Khái niệm CNTT

    CNTT, (tiếng Anh: Information Technology, viết tắt là IT)) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin, đặc biệt trong các cơ quan tổ chức lớn. Đây là một ngành nghề rộng lớn, có ảnh hưởng tới nhiều ngành nghề khác nhau của xã hội, nhất là trong những xã hội phát triển có sử dụng hàm lượng tri thức cao.

    Ở Việt Nam thì khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết 49/CP ký ngày 04/08/1993 về phát triển CNTT của chính phủ Việt Nam, như sau: "Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại - chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội."

    CNTT xuất hiện đã tạo ra bước phát triển vượt bậc giúp ích cho đời sống xã hội và con người, nó đã ảnh hưởng to lớn tới tất cả mọi mặt của đời sống xã hội, mở ra những chân trời mới, những khám phá sáng tạo mới cho con người.

    b. Sự xuất hiện của CNTT ở Việt Nam

    Toàn cầu hóa những năm 1990 đã làm xuất hiện khuynh hướng xã hội quan trọng, đó là sự chuyển trạng thái từ xã hội công nghiệp sang xã hội kiến thức và trong đó thông tin giữ vai trò trọng yếu. Sự phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) ngày nay báo trước một thời kỳ mới với những thay đổi xã hội lớn lao. CNTT như một công nghệ chung xâm nhập vào mọi lĩnh vực kinh tế xã hội. Công nghệ thông tin xuất hiện ở Việt Nam từ khá sớm, có thể nói là nó xuất hiện gần như cùng lúc với sự xuất hiện của CNTT trên thế giới. Là một ngành tổng thể bao gồm nhiều nhánh nhỏ như mạng lưới bưu chính viễn thông, truyền thông đa phương tiện, internet..., chúng ta có thể khẳng định rằng ở Việt Nam đã xây dựng được một cơ cấu hạ tầng có đồng bộ, đầy đủ trong hệ thống ngành công nghệ thông tin. Ở đây chúng ta có thể kể tới một dấu mốc đáng nhớ trong sự phát triển ngành CNTT đó là vào năm 19997, nước ta đã biến “giấc mơ Internet” thành hiện thực bằng việc tham gia kết nối vào mạng toàn cầu và tính cho tới thời điểm này, Việt nam đã trở thành quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng Internet nhanh nhất trong khu vực và nằm trong số những quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất thế giới.

    2. CNTT – động lực phát triển trong nền kinh tế tri thức

    a. Thành tựu phát triển ngành CNTT

    Ngày 17/10/2000, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (Khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 58-CT/ TW về“Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” (Chỉ thị 58). Dưới sự chỉ đạo của Đảng và điều hành của Chính phủ, trong 10 năm qua công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT) Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và đáp ứng được những mục tiêu đề ra.

    Công nghiệp CNTT đã trở thành ngành kinh tế quan trọng, có tốc độ phát triển hàng năm cao so với các khu vực khác, có tỷ lệ đóng góp cho tăng trưởng GDP của cả nước ngày càng tăng. Tăng trưởng doanh thu bình quân toàn ngành công nghiệp CNTT trong giai đoạn 2001-2009 đạt 20-25%/năm. Đến cuối năm 2010, doanh thu công nghiệp phần mềm và công nghiệp nội dung số đã đạt gần 2 tỷ USD, doanh thu công nghiệp phần cứng đạt trên 5,6 tỷ USD, doanh thu dịch vụ viễn thông đạt trên 9,4 tỷ USD, đưa tổng doanh thu toàn ngành viễn thông và công nghiệp CNTT đạt gần 17 tỷ USD, gấp 19 lần so với năm 2000.

    Hạ tầng viễn thông Việt Nam đã đạt chuẩn quốc tế. Tổng số thuê bao điện thoại cả nước tính đến cuối tháng 12/2010 ước đạt xấp xỉ 126 triệu thuê bao, trong đó có xấp xỉ 14,3 triệu thuê bao cố định, số thuê bao Internet băng rộng trên cả nước ước gần 3,7 triệu thuê bao. Hiện trên cả nước, 100% các trường từ tiểu học đến đại học đã có kết nối Internet, 99,7% số xã đã có máy điện thoại cố định, nhiều nông dân có máy di động. Mạng thông tin quốc gia đáp ứng các mục tiêu đề ra trong Chỉ thị 58 đó là phát triển nhanh, hiện đại với độ bao phủ rộng khắp cả nước, kết nối với thông lượng lớn tới các nước trong khu vực và thế giới.


    Hệ thống đào tạo nguồn nhân lực CNTT phát triển nhanh cả về quy mô và hình thức đào tạo. Trong giai đoạn 2000-2010, số lượng cơ sở đào tạo chính quy đại học và cao đẳng về CNTT tăng lên đáng kể, trong đó số cơ sở đào tạo đại học tăng gần 5 lần từ 42 lên 206, cao đẳng từ 36 lên 205, tăng gần 6 lần. Đến năm 2010, cả nước có 277 trường đại học và cao đẳng đào tạo về nhóm ngành CNTT (chiếm 73% tổng số trường) với 70 nhóm ngành CNTT, tin học và 59 khoa thuộc nhóm ngành điện tử - viễn thông, có 220 cơ sở đào tạo kỹ thuật viên CNTT cấp trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề, và 62 cơ sở đào tạo kỹ thuật viên điện tử - viễn thông. 100% các trường từ tiểu học trở lên đã được kết nối Internet là điều kiện vô cùng thiết yếu cho phát triển nguồn nhân lực CNTT cả trước mắt và lâu dài.

    Ứng dụng CNTT trong xã hội, người dân và doanh nghiệp đã có những chuyển biến tích cực. Mọi tầng lớp xã hội ở mọi miền đất nước đều được tạo điều kiện để có thể khai thác, sử dụng thông tin điện tử và ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của mình. Việt Nam đã trở thành một trong những nước có số lượng người dùng Internet cao nhất. Tháng 6/2010, tỷ lệ số hộ gia đình có máy tính đạt 14,76% tăng hơn 6 lần so với năm 2002. Tỷ lệ số hộ gia đình có kết nối Internet đạt 12,84% tính đến tháng 12/2010. Đa số các doanh nghiệp đã có kết nối Internet để phục vụ hoạt động (khoảng 90%), với 67,7% doanh nghiệp đã có mạng cục bộ LAN và việc ứng dụng phần mềm trong quản lý điều hành bắt đầu được chú trọng. Các dịch vụ công cộng (giáo dục, đào tạo từ xa, chẩn đoán bệnh từ xa, thư viện điện tử,...) đã đạt nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Những ứng dụng mang tính kỹ thuật cao đã được áp dụng trong hoạt động của nhiều ngành như xây dựng, cơ khí, công nghiệp in ấn, dệt may, dầu khí, khí tượng thuỷ văn,…

    b. Tác động của CNTT vào nền kinh tế.

    Trên cơ sở những thành tựu bước đầu của ngành CNTT như vậy, chúng ta càng thấy rõ hơn vai trò động lực của nó. Phát triển kinh tế tri thức nghĩa là đã đạt tới một trình độ phát triển cao, trình độ mà trong đó, nhân tố con người với tiềm lực trí tuệ của mình được sử dụng một cách triệt để. Đi liền với kinh tế tri thức không thể thiếu được sự phát triển của CNTT – động lực to lớn nhất để đạt tới nền kinh tế tri thức. Muốn có một nền kinh tế tri thức, CNTT phải có độ phủ sóng rộng rãi tới tất cả các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội. CNTT đã và đang góp phần ngày càng quan trọng đưa nước ta ngày càng phát triển nhanh hơn, góp phần hội nhập quốc tế hiệu quả hơn.

    Phát biểu tại lễ trao giải thưởng CNTT-TT Việt Nam 2008 diễn ra ngày 14/3/2009 tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ đạo Quốc gia về CNTT Nguyễn Thiện Nhân khẳng định, CNTT-TT đã có những đóng góp to lớn cho tăng trưởng kinh tế của đất nước và tiềm năng hình thành một ngành công nghiệp mới của đất nước.

    * Phát triển công nghệ thông tin thành hạ tầng mềm là động lực đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

    Từ những năm 80 của thế kỷ trước, nhiều học giả trên thế giới đã dự báo về một nền kinh tế - xã hội “hậu công nghiệp” - kinh tế trí thức sẽ xuất hiện trong tương lai gần, như một tất yếu của sự phát triển xã hội loài người. Nhiều nhà khoa học Việt Nam, đã tiếp cận và quảng bá rộng rãi dự báo ấy với hy vọng khích lệ thế hệ trẻ Việt Nam nắm thời cơ, đưa đất nước tiến kịp những nước phát triển “sánh vai cùng cường quốc năm châu”. Năm 2011, nhìn lại 10 năm đầu của thế kỷ XXI, trên thế giới cũng như tại Việt Nam, kinh tế tri thức đang dần lộ diện. Dù muốn hay không thì điện thoại di động, máy vi tính được nối mạng internet... cũng đã trở thành những vật hiện hữu, là tài sản, là công cụ của mỗi cá nhân, của các tổ chức, các thành phần trong xã hội, mà các sản phẩm ấy chính là công cụ của kinh tế tri thức! Trong những năm qua, nhất là sau khi có Chỉ thị 58 của Bộ Chính trị (khoá VIII) về phát triển công nghệ thông tin (CNTT) thì Việt Nam là một trong những nước có tốc độ phát triển nhanh. CNTT được ứng dụng hầu hết trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế xã hội và trở thành yếu tố quan trọng góp phần nâng cao năng suất lao động toàn xã hội.

    * CNTT là khâu đột phá, là động lực để đẩy nhanh tốc độ CNH - HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế tri thức.

    CNTT đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội trong thời đại ngày nay. CNTT đã trở thành nhân tố quan trọng, là cầu nối trao đổi giữa các thành phần của xã hội toàn cầu, của mọi vấn đề. Việc nhanh chóng đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình tự động hóa trong sản xuất kinh doanh là vấn đề đang, đã và sẽ luôn được quan tâm bởi lẽ công nghệ thông tin có vai trò rất lớn trong các hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh, bán hàng, xúc tiến thương mại, quản trị doanh nghiệp.

    Công nghệ thông tin (CNTT) là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kích thích tăng lực đổi mới đối với nền kinh tế toàn cầu nói chung và nền kinh tế quốc dân của mỗi nước nói riêng. Sự phát triển của CNTT đã tạo ra hàng loạt ngành nghề mới có giá trị gia tăng cao, đã đào tạo được hàng triệu nhân công CNTT có tay nghề cao; tạo ra nguồn thu rất lớn cho ngân sách Nhà nước thông qua việc thu thuế.

    Sự xuất hiện và ứng dụng rộng rãi CNTT trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế đã đẩy nhanh và mạnh hơn nữa việc hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. Với việc xác định nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, truyền bá sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng để tạo ra của cải, việc làm cho tất cả các ngành kinh tế, chúng ta càng thấy rõ và khẳng định động lực tiên quyết của nền kinh tế tri thức phải là CNTT.

    Cũng tại diễn đàn CNTT Thế giới 2009, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết Chính phủ Việt Nam đang xây dựng Chiến lược tăng tốc để sớm đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về CNTT. Nội dung chiến lược tập trung vào việc hoàn thiện môi trường pháp lý, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng thông tin, phát triển công nghiệp CNTT, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT trong các ngành kinh tế - xã hội, đặc biệt chú trọng việc phát triển nguồn nhân lực CNTT đông đảo và có chất lượng cao.

    Từ sự xác định đúng đắn vai trò của CNTT trong nền kinh tế tri thức, ngày 22/9/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1755/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về công nghệ thông tin và truyền thông” thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước trong việc đưa ngành CNTT - TT sánh ngang tầm khu vực và thế giới. Đề án đặt ra mục tiêu: Phát triển nguồn nhân lực CNTT đạt tiêu chuẩn quốc tế; xây dựng công nghiệp CNTT, đặc biệt là công nghiệp phần mềm, nội dung số và dịch vụ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP và xuất khẩu; thiết lập hạ tầng viễn thông băng rộng trên phạm vi cả nước; ứng dụng hiệu quả CNTT trong mọi lĩnh vực kinh tế -xã hội, quốc phòng an ninh. Tốc độ tăng trưởng doanh thu hàng năm đạt từ 2-3 lần tốc độ tăng trưởng GDP trở lên. Đến năm 2020, tỷ trọng CNTT - TT đóng góp vào GDP đạt từ 8-10%.

    3. Phương hướng phát triển CNTT tạo lập động lực phát triển trong nền kinh tế tri thức.

    CNTT là một trong những động lực quan trọng bậc nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của thế giới hiện đại. Việc ứng dụng và phát triển CNTT ở nước ta đã góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hóa các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh quốc phòng góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Với vai trò to lớn như vậy, việc xác định đúng phương hướng phát triển cho ngành sẽ tạo nên động lực thúc đẩy cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Trên cơ sở phân tích, đánh giá bước đầu tiềm năng ứng dụng và yêu cầu phát triển đất nước, xin đề xuất một số ý kiến sau:

    * Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực.

    CNTT là một thuật ngữ không còn quá xa lạ đối với người dân Việt Nam, nhưng trên thực tế hiện nay việc ứng dụng CNTT vào cuộc sống đang vấp phải nhiều khó khăn. Nguồn nhân lực không đủ yêu cầu số lượng và chất lượng trong quá trình vận hành, ứng dụng. Đặt ra yêu cầu trước tiên phải đào tạo một đội ngũ chuyên gia, kỹ sư, công nhân CNTT có tay nghề.

    Mở rộng các ngành đào tạo trong lĩnh vực thông tin và truyền thông với nhiều cấp độ, nhiều ngành nghề. Hoàn thiện hệ thống chương trình đào tạo, dạy nghề thống nhất và chuyên nghiệp, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ công chức, người lao động trong các doanh nghiệp. Đặc biệt là khả năng ứng dụng CNTT - TT vào hoạt động quản lý của nhà nước và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Chú trọng hợp tác quốc tế trong đào tạoCNTT - TT. Chú trọng ưu tiên hợp tác với các nước có trình độ CNTT cao như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc…và các trường Đại học có uy tín về đào tạo chuyên ngành. Khuyến khích và tạo điều kiện phát triển các mô hình xã hội hóa, mô hình đào tạo theo nhu cầu của thị trường, mô hình đào tạo liên kết Doanh nghiệp – Viện – Trường, mô hình liên danh, liên kết quốc tế... để cung cấp cho thị trường nguồn nhân lực CNTT đủ về số lượng, cao về trình độ và chất lượng, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đổi mới phương pháp và nội dung giảng dạy theo hướng ứng dụng, tạo điều kiện cho sinh viên tiếp xúc, làm quen với công nghệ, đảm bảo cung cấp nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng cao, có đầy đủ khả năng đảm nhận công việc ngay sau khi đào tạo.

    Có chính sách và chế độ đãi ngộ đặc biệt để thu hút nhân tài, khuyến khích chuyên gia trong và ngoài nước, đặc biệt đối với người Việt Nam ở nước ngoài có trình độ, năng lực, kinh nghiệm, vị trí và điều kiện thuận lợi trong lĩnh vực CNTT - TT tích cực, nhiệt tình tham gia đóng góp cho phát triển ngành CNTT - TT của đất nước. Tuyển chọn học sinh có năng khiếu về các môn học tự nhiên, có đam mê về tin học và các sinh viên các ngành điện tử, điện tử viễn thông, công nghệ thông tin… có thành tích xuất sắc để gửi đào tạo ở nước ngoài.

    * Xây dựng hạ tầng cơ sở CNTT.

    Xây dựng cơ sở hạ tầng CNTT - TT là yêu cầu cấp thiết đối với nước ta hiện nay. Đảm bảo cho sự thông suốt cho quá trình nghiên cứu và ứng dụng. Vì vậy cần phải:

    - Đầu tư dần đi đến hiện đại hóa cơ sở vật chất, tận dụng hạ tầng CNTT hiện có, đặc biệt từ kết quả của các đề án, dự án đã được triển khai và sự hỗ trợ của các tổ chức, doanh nghiệp. Đưa vào sử dụng hiệu quả các hệ thống thư điện tử, mở rộng các vùng phủ sóng, xây dựng hệ thống cáp quang một cách có chiến lược và quy mô, hợp tác, nối các đường cáp quang đến các nước lớn.

    - Chú trọng đến công tác phát triển mạng Internet, thuê bao điện thoại. Đầu tư xây dựng các cổng thông tin lớn, cổng thông tin chính phủ, nhà nước, ban ngành…truyền thanh, truyền hình. Xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch ngành nhằm sử dụng hiệu quả và tiết kiệm nguồn vốn đầu tư, nguồn tài nguyên và các nguồn lực quốc gia bảo đảm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

    - Hình thành môi trường nuôi dưỡng, phát triển và đón đầu cuộc cách mạng khoa học công nghệ, sẵn sàng về cơ sở hạ tầng vật chất, hậu cần, nguồn nhân lực để thu hút các tập đoàn CNTT – TT lớn trên thế giới đầu tư, triển khai hoạt động nghiên cứu và phát triển CNTT - TT tại Việt Nam.

    - Huy động vốn đầu tư từ các nguồn vốn trong nước và quốc tế, ưu tiên nguồn vốn tín dụng ngân hàng, cổ phần hoá, thị trường chứng khoán, tích luỹ, ODA… cho phát triển CNTT – TT.

    * Hoàn thiện thể chế, chính sách tạo điệu kiện cho ngành thông tin và truyền thông phát triển.

    Qua nhiều lần sửa đổi, luật pháp Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tạo được một khuôn khổ pháp lý vững chắc cho các ngành phát triển trong đó có ngành CNTT. Việc nhất thiết có một khuôn khổ pháp lý phù hợp là yêu cầu cần thiết.

    - Cần rà soát và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ ứng dụng và phát triển CNTT - TT đáp ứng các yêu cầu về hội nhập toàn diện kinh tế quốc tế, bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia, tăng cường và phát huy nội lực, thúc đẩy hợp tác và cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, tạo điều kiện để mọi thành phần kinh tế có cơ hội bình đẳng tham gia thị trường, hoàn thiện các thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN trong lĩnh vực CNTT - TT và bắt kịp xu hướng hội tụ công nghệ và dịch vụ Viễn thông - Công nghệ thông tin - Truyền thông.

    - Thể chế hóa chính sách cho lĩnh vực CNTT. Tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi về quyền sở hữu trí tuệ. Bảo vệ những phát minh khoa học theo luật pháp quốc tế. Có nhiều chính sách về tận dụng những thành tựu khoa học công nghệ trong nước cũng như tiếp cận, mua bán, sở hữu các thành tựu khoa học về CNTT của thế giới.

    - Tăng cường bộ máy quản lý nhà nước về CNTT - TT theo mô hình quản lý đa ngành, đa lĩnh vực phù hợp với xu thế hội tụ công nghệ và dịch vụ Viễn thông - Công nghệ thông tin - Truyền thông. Tổ chức hợp lý bộ máy quản lý nhà nước trên cơ sở phân biệt rõ các tổ chức có chức năng xây dựng chính sách, luật pháp với các tổ chức có chức năng thực thi pháp luật; đảm bảo hình thành hệ thống quản lý nhà nước mạnh theo nguyên tắc “Năng lực quản lý đón đầu yêu cầu phát triển”. Đổi mới tổ chức, cải tiến quy trình, nâng cao trình độ quản lý, năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Bưu chính, Viễn thông và CNTT. Nghiên cứu áp dụng các mô hình doanh nghiệp sáng tạo mới với các hình thức khác nhau nhằm đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh, thiết lập các liên minh, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trong lĩnh vực Bưu chính, Viễn thông và Công nghệ thông tin.

    * Tăng cường ứng dụng CNTT – TT vào sản xuất.

    Phục vụ sản xuất là đòi hỏi lớn đối với ngành CNTT. Yêu cầu ứng dụng trở nên cần thiết đối với bất kỳ một ngành sản xuất vật chất và tinh thần nào của đất nước hiện nay. Vì vậy, đưa CNTT vào từng khâu trong quá trình sản xuất.

    - Xây dựng mạng điện tử trong giao dịch, mua bán tạo điều kiện thuận lợi cho người mua lẫn người bán.

    - Củng cố dần hoàn thiện cổng thông tin điện tử của các sở ban ngành, nhà nước, chính phủ…tọa điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.

    - Đổi mới, cải tạo, thay thế hệ thống máy tính của không còn khả năng sử dụng bằng hệ thống máy tính mới.

    - Đưa CNTT vào trường học một cách sâu rộng, nối mạng đến từng xã văn hóa thông qua “điểm văn hóa”.

    - Sử dụng, ứng dụng mãnh mẽ CNTT trong quản lý, sắp xếp…công việc tại các doanh nghiệp.

    - Ứng dụng, phát triển các ngành tự động hóa, điện tử, tin học…vào quá trình sản xuất vật chất…

    Xây dưng một phương hướng, giải pháp phù hợp thúc đẩy ngành CNTT phát triển bền vững phải dựa vào nhiều yếu tố. Nó đòi hỏi cả một quá trình nghiên cứu sâu rộng của một quốc gia, trên cơ sở phân tích thực trạng, xu hướng và những tiền đề tạo lập cho ngành. Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, chúng tôi hy vọng những ý kiến trên đây sẽ là một trong những phương hướng tích cực đóng góp chung cho quá trình hình thành những giải pháp phát triển ngành CNTT trong tương lai, tạo lập động lực mạnh mẽ cho sự phát triển trong nền kinh tế tri thức.

    III. Kết thúc vấn đề

    Với vai trò là động lực trong nền KTTT, CNTT đã và đang thể hiện và phát huy hơn nữa sức mạnh của mình. Nhận định đúng đắn về vai trò của CNTT đã giúp ích rất nhiều cho nước ta trong quá trình xây dựng nền kinh tế tri thức. Là một nước còn nghèo, Việt Nam phải thực hiện đi tắt đón đầu nhằm đuổi kịp với kinh tế của các nước trong khu vực và thế giới, tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế. Với những xác định như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã có hàng loạt những giải pháp, định hướng để phát triển ngành CNTT đặc biệt là với việc thông qua đề án: “Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về CNTT và TT” đã thể hiện “trí tuệ, sức mạnh, quyết tâm của những người làm công nghệ thông tin nước nhà, thế hệ trẻ Việt Nam, hệ thống chính trị Việt Nam và nhân dân, đồng chí, đồng bào cả nước…thể hiện khát vọng của thế hệ trẻ Việt Nam muốn thay đổi thứ hạng của chúng ta trên trường quốc tế trong nhiều lĩnh vực, trong đó có công nghệ thông tin”, như lời Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Lê Doãn Hợp.
     
    Cảm ơn đã xem bài:

    CÔNG NGHỆ THÔNG TIN – ĐỘNG LỰC CỦA SỰ PHÁT TRIỂN